Phân loại Ngữ hệ Tungus

Những nhà ngôn ngữ học nghiên cứu ngôn ngữ Tungus đặt ra nhiều hệ thống phân loại, dựa trên "tiêu chí" khác nhau, gồm đặc điểm hình thái, từ vựng, và âm vị. Một số học giả bỏ qua mô hình rẽ nhánh, cho rằng vì lịch sử tiếp xúc lâu dài giữa các tộc nói ngôn ngữ Tungus với nhau, ngữ hệ Tungus nên được coi là một dialect continuum (dãy phương ngữ).[2]

Một phân loại được nhiều người chấp thuận chia ngữ hệ Tungus ra làm nhánh Bắc và nhánh Nam (Georg 2004). Trong khi đó, Hölzl (2018)[3], chia hệ ra làm bốn nhóm con, tên Ewen, Udeghe, Nana, và Jurche.

Cơ cấu người nói ngôn ngữ Tungus theo ngôn ngữ:

  Xibe/Tích Ba (55%)
  Evenk (28.97%)
  Even (10.45%)
  số khác (5.58%)
Tungus BắcTungus Nam

Alexander Vovin[5] ghi nhận rằng tiếng Mãn và tiếng Nữ Chân là những ngôn ngữ dị biệt trong nhánh Tungus Nam; điều này có thể là do ảnh hưởng từ tiếng Khiết Đan, tiếng Triều Tiên cổ, có lẽ cả Chukotka-Kamchatka.

Mặc cho những nét giống nhau giữa hệ Tungus và nhóm tiếng Triều Tiên, Vovin (2013)[6] cho rằng hai bên không liên quan.